Giáo dục địa phương 7
Chủ đề 1: Trang phục ở thành phố Hồ Chí Minh
Xem các hình ảnh trên và thực hiện các yêu cầu sau:

I. ÁO DÀI – TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
(1)
Áo dài từ lâu đã là trang phục truyền thống và là nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Trải qua từng thời kì phát triển của lịch sử, áo dài luôn không ngừng biến đổi nhưng vẫn đảm bảo tôn lên được nét đẹp dịu dàng của người phụ nữ Việt Nam.
(2)
Chiếc áo dài truyền thống của dân tộc Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kì phát triển, ở mỗi thời kì đều có những nét đặc trưng riêng. Nguồn gốc của chiếc áo dài đầu tiên xuất hiện vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739 – 1765) khi có những cải cách về trang phục. Sự xuất hiện của áo dài bắt nguồn từ chiếc áo giao lĩnh hay đối lĩnh (1740) là kiểu áo sơ khai nhất, được may rộng, xẻ hai bên hông, cổ tay rộng, thân dài chấm gót. Thân áo được may bằng bốn tấm vải mặc cùng thắt lưng màu và váy đen.
Sau đó, để thuận tiện hơn trong lao động sản xuất của người phụ nữ, chiếc áo giao lĩnh được may rời hai tà trước để buộc vào nhau, hai tà sau may liền lại thành vạt áo. Áo không có khuy nên bên trong phải mặc thêm chiếc yếm cổ xoay, kết hợp với dây lưng nhỏ, áo cánh khoác và váy bên ngoài.
Đến thời vua Gia Long (đầu thế kỉ XIX), áo ngũ thân xuất hiện trên cơ sở của áo tứ thân. Áo có bốn vạt được may thành hai tà như áo dài, ở tà trước có thêm một vạt áo như lớp lót kín đáo chính là vạt áo thứ năm. Kiểu áo này được may theo dáng rộng, có cổ và rất thịnh hành đến thế kỉ XX.
Năm 1939, áo dài Lemur ra đời và được cải biến từ áo ngũ thân do hoạ sĩ Cát Tường sáng tạo. Áo chỉ có hai vạt (trước và sau), vạt trước dài chấm đất. Áo được may ôm sát cơ thể, tay thẳng và có viền nhỏ. Cổ áo có các dạng như cổ tròn, cổ lá sen, cổ nhún bèo, cổ khoét rộng hoặc để hở cổ và có viền đăng ten. Vai áo may bồng hoặc không có tay. Khuy áo được mở sang bên sườn để tăng thêm vẻ đẹp nữ tính. Áo dài Lemur được mặc chung với quần hoa cài khuy bên hông hoặc có vải buộc. Ống quần bó sát từ hông đến đầu gối rồi từ đó xuống tới gấu thì xoè ra như hình cái loa. Gam màu tổng thể của áo dài Lemur dịu nhẹ, thanh nhã, tươi sáng, thẩm mĩ và mang nét tinh tế của người châu Âu. Kiểu áo này thịnh hành đến năm 1943 thì bị lãng quên.
Đến năm 1950, áo dài Lê Phổ xuất hiện. Đây cũng là một sự kết hợp mới từ áo dài tứ thân, biến thể từ áo dài Lemur của hoạ sĩ Lê Phổ. Áo được may ôm sát cơ thể, mặc cùng quần ống loe màu trắng. Vạt áo dài, tay không phồng, cổ kín, nút bên phải áo. Đây là kiểu áo dài được phụ nữ Việt Nam yêu thích trong suốt thời gian dài, được coi là “vật tổ” của các áo dài sau này.
Đến năm 1960, áo dài Raglan (còn gọi là giắc lăng) xuất hiện do nhà may Dung ở Đa Kao, Sài Gòn sáng tạo ra. Áo ôm khít cơ thể hơn, cách nối tay từ cổ chéo xuống một góc 450 giúp người mặc có cảm giác thoải mái hơn. Hai tà nối với nhau bằng hàng nút bấm bên hông. Đây chính là kiểu áo dài góp phần định hình phong cách cho áo dài Việt Nam sau này.
(3)
Ngày nay, áo dài trở thành nét văn hoá của người Việt Nam nói chung và của người Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Những người yêu mến mảnh đất này dần yêu hơn, thương hơn cái nét, cái dáng của tà áo dài thướt tha. Áo dài Thành phố Hồ Chí Minh mang nét đẹp đồng điệu với áo dài mọi miền đất nước nhưng có sự cách tân mạnh mẽ hơn để phù hợp với lối sống năng động ở Thành phố này.
Tà áo dài được cách điệu nhiều, rộng dài chấm gót, đường eo mượt không còn thắt eo nhấn sâu. Tà áo dài còn được làm thành nhiều lớp, bay bổng tựa như váy đầm. Chất liệu áo dài cũng đa dạng với các loại như ren, gấm, … Dáng áo gần như ôm sát với phần trên cơ thể. Hàng cúc bấm, cúc cài bên cổ áo và mạn sườn cũng được cách tân bằng nhiều cách như mở khoá kéo sau lưng, bên hông, …
Áo dài được sử dụng phổ biến trong các dịp của đời sống hàng ngày như đến trường, đi lễ chùa, đến giáo đường, tham gia các buổi tiệc, ... Câu hát “Tà áo em… Tung bay tà áo tung bay… Quê hương cho ta chiếc áo nhiệm màu…” trong tác phẩm Một thoáng quê hương của nhạc sĩ Từ Huy và Thanh Tùng càng khiến người dân Thành phố Hồ Chí Minh thêm tự hào về chiếc áo dài. Tất cả đã nói lên được giá trị của chiếc áo dài truyền thống trong đời sống tinh thần của người dân Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay và cả mai sau.
(4)
Chiếc áo dài truyền thống Việt Nam trải qua các thời kì và có sự biến đổi với nhiều kiểu dáng, chất liệu, từ hiện đại đến phá cách. Áo dài còn được biến chuyển thành áo cưới, áo cách tân, ... Nhưng dù thế nào, chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được nét uyển chuyển, kín đáo mà không trang phục nào có được.
II. TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI KHMER

Đối với người Khmer, trang phục truyền thống không chỉ tạo nên vẻ đẹp hình thể mà còn là niềm tin, sự tự tôn về mĩ thuật, tín ngưỡng và tâm linh. Cho dù trang phục hiện đại ngày càng phong phú và đa dạng đến đâu thì trang phục truyền thống của người phụ nữ Khmer vẫn luôn giữ được những nét đặc trưng, mang đậm bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình. Trang phục truyền thống của người phụ nữ Khmer khá cầu kì và rực rỡ, có sự kết hợp hài hoà giữa áo tầm vông (còn gọi là áo cổ vòng), vận sà rông và sbay (1) cùng với những hạt cườm, hạt kim sa lấp lánh được đính trên nền hoa văn tinh xảo.
Ngay từ cuối thế kỉ XVII, Đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều cộng đồng dân tộc sinh sống. Trong đó, người Khmer đã có mặt từ rất sớm. Mặc dù có sự cộng cư lâu đời với người Việt và người Hoa nhưng người Khmer ngày nay vẫn bảo tồn được nhiều yếu tố văn hoá của dân tộc mình. Đặc biệt là những bộ trang phục truyền thống khá cầu kì, rực rỡ, tinh tế và có nét độc đáo riêng.
Để tạo nên một chiếc áo tầm vông trong bộ trang phục truyền thống của người Khmer phải trải qua nhiều quá trình như trồng dâu, nuôi tằm, nhuộm màu, dệt lụa, … Tất cả các công đoạn này đều làm thủ công, thể hiện tâm huyết của người thợ cần mẫn, yêu nghề, yêu dân tộc.
Những tư liệu trước đây viết về người Khmer ở Nam Bộ cho thấy họ từng biết trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa và dệt vải. Tiếc thay, nghề dệt của người Khmer đã bị mai một. Cho đến trước năm 1975, nghề dệt của người Khmer hầu như thất truyền. Nghề dệt lụa ở những vùng có người Khmer sinh sống thuộc các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long xưa hay nghề dệt vải, nhuộm mặc nưa ở tỉnh An Giang nay cũng không còn, … Nơi còn sót lại nghề dệt cổ truyền của người Khmer là sóc Tà Kốt, phum Tropeng Tchau (có nghĩa là ao sâu) thuộc xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, cách huyện lị 5 km trên đường từ huyện Tịnh Biên đi đến huyện Tri Tôn.
Trang phục truyền thống của người Khmer không chỉ phong phú về màu sắc, hoạ tiết, hoa văn mà còn được thiết kế theo nhiều kiểu dáng. Chiếc áo vêng (2) mang màu trắng hoặc vàng làm chủ đạo được dệt bằng tơ tằm, sợi bông hay chỉ kim tuyến với các loại hoa văn khác nhau. Màu vàng được ưa dùng vì đây là màu sắc gợi nên không khí hội hè và đây cũng là màu sắc thường gặp trong trang trí kiến trúc tôn giáo truyền thống. Loại áo này thường có đặc điểm dài qua gối, thân rộng, xẻ ngực, tay áo chật, hai bên sườn ghép thêm bốn miếng vải theo chiều dọc từ nách đến gấu áo.
Sà rông là một mảnh thổ cẩm rực rỡ trang trí nhiều hoạ tiết hoa văn, trong đó hình trám là hoa văn chủ đạo, khi mặc thì cuốn lại che nửa người phía dưới. Kích thước của sà rông rộng khoảng 1 m, dài khoảng 3,5 m. Vào mỗi dịp lễ tết, lên chùa lễ Phật, người Khmer mặc sà rông có đính chuỗi hạt cườm ở cạp. Để tôn thêm nét dịu dàng, uyển chuyển và đầy nữ tính, không thể thiếu sbay trong bộ lễ phục này. Mỗi khi xuất hiện hay trình diễn, nét đặc trưng của trang phục luôn thu hút mọi ánh nhìn bởi sự cầu kì, tỉ mỉ, màu sắc rực rỡ, hoa văn trang trí tinh xảo được điểm xuyết, nhấn nhá bằng những hạt cườm, kim sa lấp lánh, … Trang phục truyền thống của phụ nữ Khmer e ấp, luôn mang theo những thông điệp tươi tắn. Cách tạo hình và mô-típ hoa văn trên váy và cách ăn mặc là nét đặc trưng độc đáo ở trang phục của người Khmer.
Trước đây, phụ nữ Khmer Nam Bộ thường mặc xăm pốt (váy kín). Xăm pốt được mặc theo cách quấn quanh thân từ hông và vắt về một phía, gấu váy cao trên cổ chân. Đây là loại váy tơ tằm dệt với nhiều hoạ tiết. Riêng chiếc váy cổ truyền, có tính điển hình nhất của dân tộc Khmer là chiếc xăm pốt chân khen (Sămpết chôn Kpal). Đó là tấm vải rộng quấn quanh thân từ hông xuống ngang đùi, phần vải phía sau kéo luồn giữa hai chân vắt ra phía trước rồi giắt lại ở hông thành một loại như chiếc quần phồng ngắn. Hiện nay, trang phục thường ngày của phụ nữ Khmer giống người Kinh ở địa phương và tùy theo độ tuổi mà họ ăn mặc khác nhau. Người trẻ mặc quần lụa đen, áo bà ba hoặc quần âu, áo sơ mi. Người lớn tuổi mặc quần áo bà ba đen với chiếc khăn rằn vắt vai, đội đầu hay quàng cổ. Trang phục nam của người Khmer rất đơn giản, họ chỉ mặc sà rông và ở trần. Khi ra đường, họ sẽ mặc áo bà ba đen giống như những người nông dân Kinh. Vì thế, trang phục truyền thống của người Khmer vẫn được bảo tồn qua nhiều thế hệ. Ngày hội văn hoá Khmer Nam Bộ được tổ chức định kì trong vùng với việc trình diễn trang phục dân tộc, lễ hội và trò chơi dân gian nhằm tôn vinh, bảo tồn văn hoá dân tộc Khmer.

VẬN DỤNG
Dựa vào hình ảnh gợi ý dưới đây, hãy thiết kế một chiếc áo dài để mặc trong một dịp cụ thể (đến trường, đi dự tiệc, …). Làm sản phẩm theo nhóm đã phân công trên lớp.
