Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và sự thành công
của cách mạng chủ yếu phụ thuộc vào việc tập hợp được quần chúng, xây dựng được
lực lượng cách mạng trong quần chúng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
cách mạng là cơ sở lý luận và bài học thực tiễn quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
để lại cho Đảng và nhân dân ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trường Học sinh miền Nam số
12, Thành phố Hải Phòng (18/1/1960). (Ảnh: TTXVN)
I. TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG
1.
Phát huy đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng lực lượng cách mạng toàn dân tộc
Thiên
tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sự quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc
theo phương châm “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại
thành công” để giành lại và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới. Điều
đó bắt nguồn từ sự phân tích rõ thực trạng xã hội Việt Nam, giải quyết chính
xác mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Chủ
nghĩa Mác - Lênin khẳng định giai cấp vô sản trước hết phải trở thành dân tộc,
và đấu tranh để giải phóng giai cấp vô sản là tiền đề để giải phóng áp bức dân
tộc. Xuất phát từ phân tích thực trạng xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo luận điểm này của chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định: ở Việt
Nam giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng các giai cấp bị áp bức,
bóc lột trong xã hội, trong đó có giai cấp công nhân.
Nhận
định nêu trên của Hồ Chí Minh xuất phát từ đặc điểm của xã hội Việt Nam đầu thế
kỷ XX, nơi thực dân Pháp tổ chức hệ thống cai trị trên tất cả các mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội đều bị đặt
dướisự cai trị của thực dân Pháp. Ngoài giai cấp công nhân và nông dân, các
giai cấp, tầng lớp khác, như tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trí thức, địa chủ,
phú nông, thậm chí cả các chức sắc tôn giáo Việt Nam..., đều là những người dân
chịu nỗi nhục mất nước, chịu sự cai trị của thực dân Pháp. Vì vậy, ở Việt Nam,
độc lập dân tộc là lợi ích chung của toàn dân tộc và tất cả các giai tầng trong
xã hội đều có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Đó chính là cơ sở
thực tiễn của quan điểm xây dựng lực lượng cách mạng trong tất cả các giai cấp,
tầng lớp xã hội.
Trong Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị
và được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, Người đã yêu cầu: “Đảng…
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp...
”(1).
Để
thực hiện luận điểm này, Hồ Chí Minh đã tiến hành đồng thời hai hoạt động
chính. Một mặt, tìm mọi khả năng để quy tụ toàn thể nhân dân
thuộc mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội có lòng yêu nước, thương nòi vào một
mặt trận rộng lớn; phê phán quan điểm giai cấp cực đoan, biệt phái, có hại cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mặt khác, đề ra phương thức
giải quyết từng bước mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ xã hội Việt Nam, chủ yếu
là giữa nông dân với địa chủ, bằng những biện pháp thích hợp, như hiến điền, giảm
tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất…, để tăng cường sức dân và không phá vỡ mặt trận
đoàn kết toàn dân tộc. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của
lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng ta đã quy tụ được lực lượng cách mạng của toàn dân tộc,
tạo nên sức mạnh vô địch giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc và làm thất bại mọi âm mưu, chính sách chia
rẽ dân tộc của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước.
2.
Xây dựng lực lượng chủ lực của cách mạng
Xây
dựng khối liên minh công - nông - trí thức làm lực lượng chủ lực của cách mạng
là sự phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng
ở Việt Nam. C.Mác và Ph.Ăngghen từ lý luận và thực tiễn của phong trào công
nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX, trực tiếp nhất là cách mạng tư sản Đức năm 1848
và Công xã Pari năm 1871 đã khẳng định: cuộc cách mạng vô sản hay phong trào
công nhân không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư bản nếu
không có khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó
giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Trong Cách mạng Tháng Mười Nga, phát
triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công - nông và trong
điều kiện nước Nga lúc đó đang tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất, V.I.
Lênin đã nói đến liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân với binh
lính, vận động thành lập các xô viết công nhân, nông dân và binh lính…
Xuất
phát từ thực tiễn của xã hội Việt Nam, từ yêu cầu và khả năng tập hợp lực lượng
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương trong mọi giai đoạn cách mạng “công,
nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”. Theo Người, “Tính chất
cách mạng của ta là cách mạng dân chủ mới, cho nên động lực cách mạng gồm có những
giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản”. Người nhấn mạnh: “Tuyên ngôn của Đảng
nói: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động
trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất”. Và “lao động trí
óc cần được khuyến khích, giúp đỡ, phát triển tài năng”(2).
Tư
tưởng Hồ Chí Minh coi trí thức là “vốn liếng quý báu của dân tộc”, là sự tiếp nối
truyền thống của dân tộc Việt Nam,“hiền tài là nguyên khí quốc gia”, coi trọng
sức mạnh vô tận của trí tuệ con người và sức mạnh lớn lao của một dân tộc giàu
tri thức. Thực tế lịch sử Việt Nam, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt
Nam, trí thức là tầng lớp có số lượng khiêm tốn trong xã hội, nhưng luôn đi đầu,
là ngòi nổ trong các phong trào đấu tranh chống Pháp, bảo vệ độc lập, hoặc đòi
lại quyền dân tộc, tự chủ. Trí thức cũng là những người đi tiên phong trong việc
tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, đón nhận những luồng tư tưởng
mới, tiến bộ từ bên ngoài, thực hiện tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân
dân. Từ thực tế trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi trí thức cùng với công nhân
và nông dân là chủ lực của cách mạng. Theo Người, dù đa số xuất thân từ các
thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tư sản, nhưng trí thức Việt Nam đều bị
đế quốc áp bức. “Tất cả những người trí thức nào có đôi chút tiếng tăm đều bị
đưa đi đày. Tất cả các trường tư thục đều bị đóng cửa và tất cả các sách báo nước
ngoài đều bị cấm”. Người chỉ ra hai yếu tố tích cực của trí thức Việt Nam: “Có
đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng” và nhận xét: “trí thức có học thức, dễ có cảm
giác chính trị. Họ không trực tiếp bóc lột lao động. Vì vậy, họ dễ tiếp thu sự
giáo dục cách mạng và cùng đi với công nông”.
Tư
tưởng coi trọng trí thức và mối quan hệ công - nông - trí thức của Chủ tịch Hồ
Chí Minh tạo nên lực lượng chủ lực của cách mạng được thể hiện nhất quán, xuyên
suốt trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Người đã viết: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức
và trung nông về phía giai cấp vô sản”. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, Người khẳng định: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến
kiến quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ
nghĩa lại càng cần”(3). Người nhấn mạnh: “Chính là những đảng cách mạng lại
càng trọng trí thức: vì muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn
phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ
nghệ phải cần các kỹ sư... Tóm lại, cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ
có cách mạng mới biết trọng trí thức”. Gắn kết giữa công, nông với trí thức,
Người yêu cầu: Đảng phải thực hiện “công nông trí thức hóa; trí thức công nông
hóa” và giải thích: Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ
tri thức của mình, trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực,
sáng kiến và kinh nghiệm của công nông. Theo Người, “đó là nhiệm vụ chung và cần
kíp, mà chúng ta phải cùng nhau cố gắng làm cho kỳ được”.
3.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Với
chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ
trương xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng và xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng làm chỗ dựa cho phong trào quần chúng, làm nòng cốt cho khởi
nghĩa vũ trang của quần chúng giành chính quyền.
Phân
tích sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam được tiến hành bằng bạo lực, đàn
áp khốc liệt những người yêu nước Việt Nam đứng lên chống Pháp, nên để chống lại
bạo lực của chính quyền thực dân Pháp, giành lại nền độc lập, cần đến một cuộc
khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã cho rằng: “Để có cơ
thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: Phải có tính chất một cuộc
khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn…”. Từ quan niệm nêu
trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
làm chỗ dựa cho phong trào quần chúng. Bắt đầu từ tổ chức các đội “xích vệ” bảo
vệ cách mạng trong các cao trào cách mạng 1930 - 1931, đến thành lập các đội
du kích vũ trang sau khởi nghĩa Bắc Sơn. Sau Hội nghị Trung ương 8 và thành lập
Mặt trận Việt Minh, tháng 12 năm 1941 tại Cao Bằng từ các đội tự vệ cứu quốc, tự
vệ chiến đấu (tổ du kích) được thành lập làm cơ sở cho đấu tranh ở địa phương,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Đội vũ trang Cao Bằng, tự tay soạn thảo “Mười
điều kỷ luật” và những nguyên tắc cơ bản xây dựng quân đội. Khi phong
trào cách mạng phát triển, tháng 12 năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị
thành lập “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Đó là sự kiện lịch sử
quan trọng, đánh dấu bước khởi đầu việc xây dựng và phát triển quân đội cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Lực
lượng vũ trang được xây dựng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đội
quân công tác, đội quân chiến đấu, nhấn mạnh nhiệm vụ tuyên truyền vận động quần
chúng. Ngay việc lấy tên là “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định rõ đây là đội quân công tác, kết hợp nhiệm vụ tuyên
truyền, tổ chức quần chúng đấu tranh, làm chỗ dựa cho quần chúng đấu tranh
chính trị với tác chiến. Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Người nhấn mạnh
quan hệ máu thịt giữa bộ đội với nhân dân, như “cá với nước”, “bộ đội ta từ nhân
dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”. Theo Người, sức mạnh của lực lượng vũ
trang, trước hết là từ nhân tố con người, phẩm chất và sự giác ngộ chính trị của
người chiến sỹ, nên đề ra quan điểm “người trước, súng sau” trong xây dựng lực
lượng vũ trang.
Quan
điểm xây dựng lực lượng vũ trang gắn bó với nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với tư tưởng xây dựng
“trận địa lòng dân” trong các khu căn cứ cách mạng, từ Pắc Bó mở rộng ra toàn tỉnh
Cao Bằng, thành căn cứ địa cách mạng ở 6 tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Thái - Hà -
Tuyên..., các “an toàn khu” gần các đô thị lớn..., góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
phong trào cách mạng quần chúng trong cả nước, tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945.
Sau
khi thành lập Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân, tư tưởng xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong xây dựng lực lượng
quân đội quốc gia Việt Nam trung với nước, hiếu với dân, gắn bó chặt chẽ với
nhân dân, cùng nhân dân giữ vững nền độc lập dân tộc. Những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp (1946 - 1950), trong hoàn cảnh hoàn toàn tự lực
cánh sinh, dựa vào sức mình để chống lại đội quân xâm lược Pháp, nhờ dựa vào
dân, gắn bó với nhân dân, quân đội ta “càng đánh, càng mạnh”, phát triển từ các
trung đoàn chủ lực lên các đại đoàn chủ lực… Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, lực lượng vũ trang cách mạng ngày càng lớn mạnh, đủ ba thứ quân, gồm cả
những binh chủng và vũ khí hiện đại, chiến thắng đội quân nhà nghề của Mỹ trong
bốn chiến lược chiến tranh ở miền Nam, trong chiến tranh điện tử, chiến tranh
phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân, quật ngã pháo đài bay B.52 trên bầu
trời Hà Nội. Ngày nay, lực lượng vũ trang cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã và đang bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;
Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội; công cuộc đổi mới, nền văn hóa và môi
trường hòa bình của đất nước… Đó là những sự kiện nổi bật, minh chứng cho sự
đúng đắn, sáng tạo trong xây dựng lực lượng vũ trang Việt Nam, trong xây dựng lực
lượng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4.
Hình thành mặt trận đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại
Ra
đi tìm đường cứu nước, trở thành nhà hoạt động cách mạng thế giới, đảng viên Đảng
Cộng sản Pháp, cán bộ của Quốc tế Cộng sản, từ rất sớm đã hình thành trong tư
tưởng Hồ Chí Minh quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc vớisức mạnh thời đại. Người
đã có ý thức sâu sắc về việc đặt cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế
giới khi tham gia sáng lập “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa” để tập hợp các
dân tộc thuộc địa trên thế giới thành một khối sức mạnh thống nhất chống chủ
nghĩa thực dân…
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra sức mạnh của thời đại mớisau thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917. Đó là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, trong đó
có giai cấp vô sản đã giành được chính quyền ở một nước lớn là nước Nga xô viết,
của nhân dân lao động thế giới đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ
xã hội. Đó là cơ sở để Người tiếp tục khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng thế giới và trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, ngoài chủ
trương dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, phải đồng thời phải khai thác sức
mạnh của thời đại.
Tinh
thần quốc tế vô sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong khẩu hiệu “bốn
phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với
các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ
trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Đó là sự kết hợp chủ
nghĩa quốc tế vô sản với chủ nghĩa yêu nước chân chính. Với Người, phải thông
qua thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng
thế giới. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc cho mình,
đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong
mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh
coi nguồn lực bên trong giữ vai trò quan trọng. Người nêu cao khẩu hiệu “Muốn
người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình”; “Một dân tộc không
tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”. Muốn tranh thủ sức mạnh của thời đại phải có đường lối đúng đắn, phát huy
độc lập, tự chủ, kết hợp chặt chẽ mục tiêu phấn đấu cho độc lập, thống nhất của
dân tộc mình với mục tiêu của thời đại: “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội”.
Nhờ
quan điểm rõ ràng, sáng tạo, khoa học và nhân văn trong kết hợp giữa sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại, nên dù ở nơi đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới,
hình thành mặt trận đoàn kết quốc tế gồm nhân dân và các lực lượng cách mạng
trên thế giới giúp đỡ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Đó là một nhân tố
quan trọng, góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ
XX như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Chính vì biết kết hợp phong
trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế
và của các dân tộc bị áp bức mà Đảng ta đã vượt qua mọi khó khăn đưa giai cấp
công nhân và nhân dân nước ta đến những thắng lợi vẻ vang ngày nay”.
5.
Luôn quan tâm, chăm lo xây dựng và hoàn thiện những nhân tố có ý nghĩa quyết định
đến sức mạnh của lực lượng cách mạng
Trước
hết, đó là xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất,
phương pháp cơ bản trong tập hợp lực lượng cách mạng. Ngay từ rất sớm, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã thiết kế, xây dựng, tổ chức, lãnh đạo và điều
hành hoạt động Mặt trận dân tộc thống nhất. Tổ chức mặt trận dân tộc thống nhất
đã được thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1930 trong cao trào cách mạng đầu tiên
do Đảng lãnh đạo, đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Tiếp nối là các
hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất trong các giai đoạn cách mạng
khác nhau, điển hình nhất là Mặt trận Việt Minh, thành lập sau khi Chủ tịch Hồ
Chí Minh về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mặt trận Việt Minh đã
tập hợp rộng rãi nhất, đông đảo nhất các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính
trị, các tôn giáo yêu nước…, thành một lực lượng cách mạng hùng mạnh để chống kẻ
thù chính của dân tộc Việt Nam lúc ấy là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Từ đó,
đã tạo nên sức mạnh to lớn để giành thắng lợi vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.
Để
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất, Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc tập hợp lực lượng của các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội tham gia các đoàn thể chính trị. Các tổ chức công đoàn, đoàn
thanh niên, hội liên hiệp phụ nữ, văn nghệ sỹ, trí thức, công thương gia… đã được
thành lập từ rất sớm, luôn luôn được Người quan tâm để ngày càng phát triển,
thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, tạo nên lực lượng cách mạng
to lớn trong các giai đoạn cách mạng.
Thứ
hai, là xây dựng một nhà nước dân chủ cộng hòa, của
dân, do dân, vì dân dướisự lãnh đạo của Đảng, nhân tố quan trọng để phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Xuất phát từ vai trò của Nhà nước cách mạng, trong
Chương trình của Việt Minh do Người soạn thảo, Hồ Chí Minh đã trực tiếp đề cập
đến việc thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân khi khởi nghĩa giành thắng lợi.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam ra
đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân..., chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử
ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(4). Quan điểm nêu trên
không chỉ làm rõ bản chất của Nhà nước, mà khẳng định quan hệ gắn kết giữa Nhà
nước và nhân dân, cơ sở để tập hợp lực lượng to lớn trong nhân dân xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Là người thành lập, đứng đầu Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam
suốt 24 năm, Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng Nhà nước dân chủ, cộng hòa Việt
Nam làm hạt nhân lãnh đạo xây dựng lực lượng cách mạng, tập hợp sức mạnh toàn
dân tộc.
Thứ
ba, trong việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định rất rõ vai trò, trách nhiệm của Đảng và quan tâm xây dựng
Đảng, người tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ rất sớm, Người đã viết:
“Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì có liên hệ với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(5). Người khẳng định “Đảng ta là con nòi
của dân tộc”, và “... Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(6).
Trong
công tác xây dựng Đảng, Người đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ “máu thịt” với
nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng. Người đặc biệt yêu cầu phải giữ gìn sự
đoàn kết trong Đảng, để từ đó tạo nên được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Trong Di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng
và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự
đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con người của mắt mình”(7).
6.
Quan tâm đến công tác giáo dục thế hệ trẻ, bồi dưỡng các thế hệ cách mạng cho đời
sau
Trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, từ rất sớm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh đã nhận thức rõ vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp cách mạng của một
dân tộc. Năm 1925, trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người viết: “Hỡi
Đông Dương đáng thương hại, ngươi sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của
ngươi không sớm hồi sinh”(8). Người đã thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức đào tạo bồi dưỡng về lý luận
cách mạng cho các thanh niên Việt Nam yêu nước từ trong nước sang, sau đó cử về
nước tham gia phong trào “vô sản hóa”, làm nòng cốt trong các phong trào cách mạng
của nông dân, công nhân, học sinh, trí thức...
Sinh
ra trong một gia đình nho học, ông ngoại, cha làm nghề dạy học, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm nhận thức được vai trò của giáo dục trong xã hội, nhất là trong đào
tạo cán bộ, bắt đầu từ bồi dưỡng thế hệ trẻ. Từ kinh nghiệm thực tế của mình
khi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, ngay từ cuối những năm 20 của thế kỷ XX,
trước khi thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tranh thủ được sự giúp đỡ của
Quốc tế Cộng sản để gửi một số thanh niên sang Liên Xô học trường quốc tế
Phương Đông, đào tạo họ thành những chiến sỹ cộng sản có lý luận, về nước tham
gia các phong trào cách mạng do Đảng lãng đạo. Nhận thức rõ vai trò của trí thức
đối với lực lượng cách mạng cũng như toàn xã hội, khẳng định “một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”, ngay sau khi giành được chính quyền trong Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, Người đã chỉ ra “dốt” là một trong ba thứ giặc cần đánh đổ. Tháng
9 năm 1945, ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, với tư cách là người đứng
đầu Chính phủ lâm thời, Người đã viết thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam mới. Trong thư có đoạn: “Non sông Việt Nam có trở
nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai
với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các em”(9). Trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ có rất nhiều
khó khăn, gian khổ, Người vẫn quan tâm đến giáo dục và yêu cầu ngành giáo dục
phải “Thi đua hai tốt”: dạy tốt và học tốt. Trong kháng chiến chống Pháp, sau
khi lập được quan hệ ngoại giao, Người đã tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước
xã hội chủ nghĩa, nhất là Trung Quốc và Liên Xô, cử được nhiều thanh niên trẻ
đi học ở các nước này. Những năm kháng chiến chống Mỹ, Người chỉ đạo liên tục cử
nhiều học sinh Việt Nam, từ các bậc học phổ thông đến sau đại học sang học tập
tại Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Những lưu học sinh,
nghiên cứu sinh Việt Nam qua các thời kỳ được đào tạo ở nước ngoài là lực lượng
quan trọng trong đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ của Việt Nam và
hiện nay là cầu nối hữu nghị giữa Việt Nam với nhiều nước trên thế giới.
Sự
quan tâm đến đào tạo các thế hệ cách mạng cho đời sau của Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ thể hiện sự quan tâm đến ngành giáo dục, mà còn yêu cầu tất cả các tổ
chức đảng, chính quyền phải thường xuyên quan tâm, giúp đỡ, giáo dục thanh, thiếu
niên trở thành những người kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước.
Trong bản Di chúc bất hủ, Người viết: “ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là
tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Và “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”(10).
II. VẬN
DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
HIỆN NAY
Hiện
nay, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, với
nhiều yếu tố mới tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại
dịch Covid-19 và cuộc đấu tranh rất thành công để chống đại dịch này của toàn
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức thực hiện của Nhà nước đã thể hiện rõ
tư tưởng xây dựng lực lượng cách mạng toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh “có dân
là có tất cả”, “khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng lực lượng cách mạng, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
Đại hội XIII của Đảng sẽ tổng kết lý luận và thực tiễn, đề ra các giải pháp
phát huy ý chí và khát vọng phát triển của toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Quán
triệtsâu sắc và vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh, giải pháp xây dựng lực
lượng cách mạng trong giai đoạn mới cần tập trung vào các điểm chính sau đây:
Một
là, đề cao chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc,
giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.
Thực
hiện tư tưởng Hồ Chí Minh cần đề cao chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc,
coi đó là sức mạnh tinh thần to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhận xét: “đã là người Việt Nam thì ai cũng ít nhiều có lòng yêu nước”,
và “dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của ta…”.
Phát huy chủ nghĩa yêu nước chân chính để khơi dậy tinh thần tự cường dân tộc,
“niềm tin và khát vọng phát triển” vươn lên, đưa đất nước trở thành quốc gia
phát triển trên thế giới, để Việt Nam “bước lên đài vinh quang, sánh vai với cường
quốc năm châu” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng và Nhà nước phải thực
hiện nhất quán, rõ ràng quan điểm đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là mục đích tối
thượng để tạo cơ sở xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu chung
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xây dựng con người và nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá thực sự trở thành
sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Khơi dậy
tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển, tài
năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động
lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
Hai
là, chăm lo bồi dưỡng sức dân, xây dựng thế trận
lòng dân.
Quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, để phát huy tài lực, sức mạnh toàn dân cần thực hiện
đầy đủ quan điểm Nhà nước bảo đảm quyền “tự do làm ăn theo pháp luật”, “khuyến
khích làm giàu cho mình cho đất nước” để phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường
định hướng lên xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện quan điểm phát triển bền vững,
bao trùm, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi
ích trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển, từng chính sách xã hội; xây
dựng một xã hội hài hòa, đoàn kết tương trợ lẫn nhau.
Tăng
cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền
vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, an
ninh con người, giải quyết hài hoà các quan hệ xã hội, kiểm soát sự phân hoá
giàu - nghèo, kiểm soát và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung
đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân. Tập trung giải quyết nhóm nghèo nhất, vùng nghèo
nhất, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, miền, dân tộc. Đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn giao thông. Trên cơ sở đó để
huy động mọi tiềm lực trong nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba
là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân gắn bó với nhân dân, trung thành vô hạn với Tổ
quốc và nhân dân. Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân trong sạch, vững
mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm lực lượng nòng cốt bảo đảm
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, thế trận lòng dân trong bảo vệ Tổ quốc,
giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội; trong đấu tranh, làm thất bại mọi âm
mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào các công việc nội bộ, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn
định chính trị đất nước.
Bồi
dưỡng, đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang có bản lĩnh
chính trị, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, có trình độ nắm bắt,
khai thác, làm chủ khoa học, công nghệ, vũ khí, trang bị hiện đại. Chú trọng hiện
đại hóa, “trí tuệ hóa” lực lượng vũ trang. Tập trung tổ chức xây dựng lực lượng,
vũ khí, trang bị, xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an
ninh, đi thẳng vào hiện đại và ứng dụng công nghệ cao, nghiên cứu sản xuất các
trang bị, vũ khí hiện đại của Việt Nam. Phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam
trong điều kiện mới, phòng chống chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới.
Xây dựng quân chủng hải quân, phòng không không quân, lực lượng cảnh sát biển,
kiểm ngư chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, có trang bị vũ khí, phương tiện tiên
tiến, hiện đại. Nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, công tác của lực
lượng vũ trang đủ sức bảo vệ vững chắc vùng trời, vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Bốn
là, nâng cao chất lượng hoạt động đối ngoại, hội nhập
quốc tế.
Thực
hiện nhất quán chính sách đoàn kết quốc tế, với tinh thần Việt Nam muốn là bạn,
là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế và các tổ
chức quốc tế đang tham gia. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng vì lợi
ích của dân tộc và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình, độc lập dân tộc, tiến
bộ trên thế giới.
Triển
khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại. Bảo đảm lợi ích của
quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình
đẳng, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giải quyết tốt
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng, đổi
mới, hoàn thiện thể chế trong nước. Nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh, khả
năng thích ứng của đất nước, tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định,
nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao hiện đại
vì lợi ích quốc gia - dân tộc, lấy phục vụ người dân và doanh nghiệp làm trung
tâm.
Năm
là, xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh vì đất nước, vì nhân dân.
Để
thực hiện giải pháp này, việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng Nhà
nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân
dân có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, là những nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo
đảm sự thành công của công cuộc đổi mới.
Xây
dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là
liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân
trong xã hội, tham gia giám sát, phản biện xã hội, xây dựng Đảng và xây dựng
chính quyền nhân dân. Phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng;
nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng nhằm thích ứng với cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quá trình phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp. Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Phát triển đội
ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng, có tinh thần dân tộc, có đạo
đức và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi. Phát huy vai trò của thanh niên, phụ
nữ, cựu chiến binh trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tôn trọng và phát huy vai trò của các tầng lớp nhân
dân, các dân tộc, tôn giáo trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, trong nước và nước
ngoài vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực
hiện tốt, có hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở trên
thực tế, theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”. Thực hành và phát huy rộng rãi vai trò tự quản của nhân
dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội. Đề
cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển
đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Bài học lịch sử của
cách mạng Việt Nam về học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bắt đầu từ cuốn
Đường Kách mệnh, qua cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, đến bản Di chúc bất hủ cho thấy,
khi nào Đảng ta thực hành và vận dụng đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh thì cách mạng
đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Phương pháp đúng đắn nhất,
hiệu quả nhất trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh hiện nay là nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó
có các luận điểm, phương pháp và kinh nghiệm của Người trong xây dựng lực lượng
cách mạng toàn dân tộc ở Việt Nam./.
____________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011,
t.3, tr.3.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.71.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.59.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.598.
(5) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2,
tr.226-227, 144.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.175.
(7) (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15,
tr.622, 622.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4. tr.35.
GS. TS. Phùng Hữu Phú
Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương,
Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương
PGS. TS. Ngô Văn Thạo
Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương